X

Tính chỉ số BMI

Chiều cao: cm

Cân nặng : kg

Tính

Được thành lập từ ngày 1/10/2002, Phòng khám Hoàng Gia Healthcare không ngừng phát triển, phấn đấu trở thành địa chỉ tin cậy của các cặp vợ chồng tại Thành Phố Hồ Chí Minh và cả nước chuyên cung cấp các dịnh vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm, thụ tinh nhân tạo, trữ trứng, khám thai sản, chẩn đoán tiền sản, siêu âm tiền sản. Lấy phương châm phục vụ khách hàng bằng cả trái tim, các Bác Sĩ Phòng khám cam kết đem lại sự hài lòng cho khách hàng.

Archives

KHÁM & CHẨN ĐOÁN HIẾM MUỘN

By on 26/04/2016

Hiếm muộn là gì ?

Hiếm muộn được định nghĩa là tình trạng một cặp vợ chồng không thể có thai hoặc không có con sau ít nhất một năm giao hợp bình thường, không ngừa thai. Người càng lớn tuổi, đặc biệt sau 35 tuổi, khả năng có thai sẽ giảm. Hiện nay người ta có khuynh hướng rút ngắn thời gian chẩn đoán hiếm muộn xuống 6 tháng (thay vì 1 năm) cho những cặp vợ chồng lớn tuổi (trên 35 tuổi). Do đó, bạn nên đi điều trị sớm nếu có vấn đề về hiếm muộn .

Tỉ lệ hiếm muộn là bao nhiêu ?

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có khoảng 8-10% cặp vợ chồng có vấn đề liên quan đến hiếm muộn. Tuy nhiên, tỉ lệ hiếm muộn ở một số quốc gia có thể cao hơn do hoàn cảnh và tập quán sinh sống. Ví dụ ở Pháp, một nghiên cứu ước tính có khoảng 18% số cặp vợ chồng trong tuổi sinh sản có vấn đề hiếm muộn. Ở nước ta, theo số liệu điều tra dân số từ những năm 80, tỉ lệ hiếm muộn có thể trên 10%.

Hiếm muộn là bệnh của vợ hay chồng ?

Bạn nên biết hiếm muộn được xem là một tình trạng bệnh lý của một cặp vợ chồng. Tỉ lệ hiếm muộn nguyên nhân do vợ và chồng là tương đương nhau. Theo nhiều số liệu thống kê, nguyên nhân do vợ chiếm 30-40%, do chồng chiếm 30%, do cả vợ và chồng chiếm 15-30% và có khoảng 10% hiếm muộn không rõ nguyên nhân .

Các nguyên nhân gây hiếm muộn – vô sinh thường gặp ?

  • Đối với người vợ thường có các nguyên nhân sau
    – Tổn thương vòi trứng
    – Không có hiện tượng rụng trứng hay rụng trứng không thường xuyên .
    – Lạc nội mạc tử cung
  • Đối với người chồng
    – Thường gặp nhất là bất thường về số lượng và chất lượng tinh trùng, chiếm đến 90% trường hợp hiếm muộn do nam giới .

Xét nghiệm thường thực hiện khi khám và điều trị hiếm muộn?
Người vợ thường được thực hiện các xét nghiệm sau
– Siêu âm
– Xét nghiệm định lượng nội tiết: tuỳ từng xét nghiệm, phải được làm theo đúng ngày nhất định trong chu kỳ kinh .
– Chụp X quang tử cung- vòi trứng (HSG): thường thực hiện sau khi sạch kinh
– Nội soi chẩn đoán.
Hầu hết tất cả người chồng đến khám hiếm muộn đều phải được thử tinh dịch đồ (phân tích tinh dịch). Đây là xét nghiệm cơ bản và cần thiết để chấn đoán và điều trị cho dù nguyên nhân hiếm muộn là do chồng hay vợ.

Chụp X quang buồng tử cung và vòi trứng (HSG) là gì ?

Đây là xét nghiệm đánh giá hai vòi trứng của người vợ có thông hay không và phát hiện những bất thường khác ở tử cung. HSG thường được thực hiện sau khi sạch kinh hoàn toàn khoảng 2 ngày. khi thực hiên, một thuốc cản quang sẽ được bơm vào buồng tử cung và vòi trứng, nếu vòi trứng thông thuốc sẽ chảy ra ngoài ổ bụngvà được phát hiện khi xem phim chụp X-quang. Tuy nhiên, trong trường hợp có nghi ngờ tổn thương vòi trứng, bác sĩ sẽ đề nghị bạn thực hiện mổ nội soi để chấn đoán tổn thương hoặc thông vòi trứng.

Mổ nội soi ?

Trong chẩn đoán và điều trị hiếm muộn, bác sĩ thường cho chỉ định bạn thực hiện mổ nội soi khi nghi ngờ có tổn thương ở vòi trứng do nhiều bệnh lý khác nhau. Mổ nội soi thường một cuộc mổ nhẹ, thời gian hồi phục nhanh, có thể xuất viện khoảng 2 ngày sau mổ. Sau khi mổ chỉ để lại vài vết sẹo nhỏ khoảng 1cm trên bụng .Trước khi mổ, bạn cần làm một số xét nghiệm để hội chuẩn và hồ sơ nhập viện.

Mổ nội soi giúp cho bác sĩ biết rõ tổn thương của buồng tử cung, vòi trứng, buồng trứng và các tổn thương khác nếu có. Mổ nội soi có thể giúp phục hồi lại chức năngvòi trứngvà điều trị một số bệnh lý khác của tử cung, vòi trứng và vùng chậu .

Tinh dịch đồ ?

Tinh dịch đồ (còn gọi là phân tích tinh dịch) là xét nghiệm cơ bản để chẩn đoán khả năng sinh sản của nam giới. Tinh dịch đồ cho biết được số lượng và chất lượng tinh trùng có trong tinh dịch, đồng thời nó có thể chẩn đoán được nguyên nhân của các bất thường về tinh trùng. Hầu hết các cặp vợ chồng điều trị hiếm muộn đều cần phải thực hiện tinh dịch đồ.

Tinh dịch được lấy làm xét nghiệm sau 3-5 ngày kiêng giao hợp. Phải lấy tinh dịch bằng tay (như thủ dâm) mới đảm bảo được kết quả chính xác. Nếu lấy mẫu ở nhà phải đem đến phòng xét nghiệm trong vòng 1 giờ sau. Mẫu phải được chứa vào hũ vô trùng và được giữ ấm(<40 độ C) trước khi thực hiện xét nghiệm.

TẦM SOÁT KHIẾM THÍNH SƠ SINH

By on 26/04/2016
1.     VÌ SAO CẦN TẦM SOÁT KHIẾM THÍNH SƠ SINH?
Khiếm thính sơ sinh xảy ra ở tỷ lệ 1/1000 – 1/2000 trẻ sơ sinh, riêng trong nhóm trẻ có nguy cơ cao thì tỷ lệ trẻ sơ sinh khiếm thính có thể rất cao, từ 1/50 trẻ đến 1/25 trẻ sơ sinh.
Khiếm thính càng gây nhiều tác hại khi xảy ra càng sớm, vì bản chất của việc hình thành tiếng nói là một sự lặp lại những gì trẻ đã nghe. Không nghe được có nghĩa là trẻ sẽ không biết nói. Vì vậy trẻ khiếm thính cần được xử trí kịp thời và đúng cách để giảm bớt các ảnh hưởng bất lợi đến việc học tập, giao tiếp xã hội, hòa nhập cộng đồng, và phát triển thần kinh tâm lý. Trẻ sơ sinh nếu được phát hiện và can thiệp sớm sẽ có thể nghe, nói và phát triển thần kinh tâm lý như người bình thường, nếu không có các triệu chứng khác kèm theo.
 
2.      NHỮNG TRẺ NÀO CẦN TẦM SOÁT KHIẾM THÍNH SƠ SINH?
Tất cả trẻ sơ sinh đều cần được tầm soát khiếm thính, vì hầu hết trẻ khiếm thính có vẻ ngoài hoàn toàn bình thường, nếu đợi đến lúc có triệu chứng rõ thì việc điều trị sẽ không đạt kết quả mong muốn. tuy nhiên trong điều kiện hiện tại, nhân sự còn hạn chế, chi phí tầm soát tương đối cao so với một số gia đình, thì có thể ưu tiên tầm soát khiếm thính cho nhóm trẻ sơ sinh có nhiều nguy cơ nhất, gồm những trẻ:
–  Trẻ thiếu tháng (tuổi thai lúc sinh < 37 tuần),
–  Trẻ quá ngày (tuổi thai lúc sinh > 42 tuần) và/hoặc già tháng,
– Trẻ yếu sau sinh, hoặc nhiễm khuẩn bào thai, hoặc nhiễm khuẩn sơ sinh sớm (có triệu chứng nhiễm khuẩn trước 7 ngày tuổi),
–   Trẻ có dị tật bẩm sinh bên ngoài.
Trẻ của những người mẹ đã từng sẩy thai tự nhiên, hoặc người mẹ có tiền sử mắc phải một trong số các bệnh nhiễm khuẩn bào thai sau đây: Toxoplasma, Rubella, nhiễm virus hạt bám cự bào (CMV), Herpes.
3.      PHƯƠNG PHÁP TẦM SOÁT KHIẾM THÍNH SƠ SINH
–     Phương pháp sử dụng giọng nói:
Cho bé nghe một giọng nói gồm nhiều âm đơn giản ở một khoảng cách đến tai nhất định. Nếu bé không có biểu hiện gì là đã nghe các âm đơn giản trên thì cần đưa bé đến kiểm tra thính lực tại các bệnh viện chuyên khoa. Phương pháp này có khuyết điểm là có thể cho kết quả dương tính giả (nghi ngờ khiếm thính trong khi bé bình thường) gây tâm lý lo lắng cho gia đình và phải tốn nhiều công kiểm tra kết quả.
–  Phương pháp tầm soát khiếm thính bằng máy kiểm tra thính lực
Trước kia, việc kiểm tra này chỉ được thực hiện tại các bệnh viện chuyên khoa. Ngày nay, việc kiểm tra khiếm thính sơ sinh có thể được thực hiện ngay tại các cơ sở sản khoa và chăm sóc sơ sinh. Có hai loại máy kiểm tra thính lực:
–  Máy đo ốc tai (OAE): sử dụng phương pháp đưa kích thích âm vào tai của bé và đo âm truyền đến tai giữa. nếu tai giữa có bất thường, âm ốc tai sẽ không đo được. Phương pháp OAE không hoàn toàn chính xác và lệ thuộc vào một số điều kiện kỹ thuật.
–  Máy đo điện thân não (ABR): đưa kích thích âm đến tai, kế đó đo các sóng điện đáp ứng sớm của thân não. Đây là phương pháp đo thính lực đơn giản, ít mất thời gian và có độ chính xác cao, hiện đang được sử dụng tại bệnh viện Hùng Vương.
da-em-be
4.      QUY TRÌNH TẦM SOÁT KHIẾM THÍNH SƠ SINH
–   Tư vấn trước tầm soát
Các sản phụ có thể đề nghị gặp các bác sĩ nhi tại phòng bệnh để giải thích
–   Kiểm tra thính lực
Nhân viên và/hoặc gia đình sẽ đưa bé đến “Phòng kiểm tra thính lực sơ sinh”. Trung bình cần khoảng 30 phút cho một lượt kiểm tra.
–  Tư vấn sau tầm soát
Nếu bé có kết quả tầm soát (-), các bà mẹ có thể yên tâm về thính lực lúc sinh của bé.
Nếu bé có kết quả tầm soát nghi ngờ, các bà mẹ cần gặp bác sĩ nhi để được tư vấn thêm và hướng dẫn các bước kế tiếp
–  Chẩn đoán xác định khiếm thính sơ sinh
Khi nghi ngờ khiếm thính, các bé sẽ được hẹn trở lại bệnh viện lúc được 1 tháng tuổi để kiểm tra (miễn phí).
Những bé vẫn có kết quả bất thường trong lần kiểm tra này sẽ được giới thiệu sang Khoa Thính lực – Bệnh viện Tai Mũi Họng để được theo dõi và điều trị.
Phòng khám sưu tầm

13 SAI LẦM NÊN TRÁNH KHI CHĂM SÓC TRẺ SƠ SINH

By on 26/04/2016
Chăm sóc đứa con đầu tiên nhiều khi là một việc làm quá sức nhất là những bà mẹ trẻ. Gặp khó khăn là điều khó tránh khỏi và nhiều khi phạm phải sai lầm khi giải quyết những khó khăn vượt quá sức này. Sau đây là những sai lầm mà bạn có thể dễ dàng tránh để có thể chăm sóc đứa con bé bỏng của mình một cách an toàn.
   1. Nằm phòng tối sau sanh: mẹ và em bé nằm trong căn phòng tối lờ mờ sẽ gây nhiều khó khăn trong chăm sóc và ảnh hưởng xấu đến trẻ. Trong căn phòng tối này, bạn khó phát hiện vàng da sớm ở bé. Nhiều trường hợp khi mang bé ra ánh sáng thì nhận ra bé bị vàng da nặng tới lòng bàn tay bàn chân, hậu quả là nguy cơ tử vong và di chứng thần kinh tâm thần rất cao. Thiếu ánh sáng mặt trời sẽ làm tăng nguy cơ thiếu vitamin D, sẽ làm trẻ khóc đêm liên lục, dễ giật mình, ọc sữa, còi xương. Trong phòng tối bạn cũng khó phát hiện những bất thường ở trẻ như mụn mủ da, khó nhìn rõ để chăm sóc bé được tốt và nhiều khi phòng tối lại kèm quá kín gây không khí tù đọng, hôi hám nên nguy cơ nhiễm trùng sẽ rất cao.
   2. Mẹ kiêng ăn: một số người nghĩ rằng bà mẹ phải kiêng ăn mới tốt cho sức khoẻ bà mẹ và có nguồn sữa tốt cho bé. Nhiều trường hợp chỉ cho bà mẹ ăn cơm với muối, hay thịt kho thật mặn, kiêng cữ canh, rau, trái cây. Điều này làm cho bà mẹ khó ăn uống, thiếu năng lượng, mệt mỏi, táo bón, thiếu canxi. Trong khi nhu cầu dinh dưỡng bà mẹ cao để bù năng lượng mất do cuộc sanh và phải cho bú mẹ. Làm sao mẹ có được nguồn sữa mẹ tốt nếu ăn uống quá kiêng khem! Do đó, cách tốt nhất là cung cấp đủ nguồn dinh dưỡng cho bà mẹ đang cho con bú. Ăn uống đủ thành phần thịt, cá, trứng, rau, trái cây. Cho mẹ uống sữa thêm, uống nhiều nước, nghỉ ngơi hợp lý mới khỏe mạnh và có nhiều sữa nuôi con khỏe mạnh được.
Ảnh minh họa.
   3. Kiêng tắm: đây là tập quán thường gặp vì sợ bà mẹ bị lạnh. Dĩ nhiên sau sanh bà mẹ mất máu, mệt mỏi nên dễ bị lạnh. Cách tốt nhất là “bồi bổ” bà mẹ bằng cho ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý, tạo tinh thần thoải mái. Mẹ sẽ khỏe và chống được lạnh. Việc không vệ sinh sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm trùng nguy hiểm cho mẹ và con. Chúng ta biết rằng, mọi người cần tạo ra và chăm bé trong môi trường thông thoáng vệ sinh, tuân thủ rửa tay trước và sau khi chăm sóc bé.
   4. Nằm than: đây là biện pháp thường dùng giúp bà mẹ và em bé được ấm. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, có nhiều biện pháp hiệu quả và khoa học hơn giúp giữa ấm bà mẹ và em bé. Trong khi đó nhiều trường hợp bé bị ngộ độc do khí CO từ than, bị bỏng, hoặc mụn mủ, viêm mô tế bào vùng lưng rất nguy hiểm. Do vậy, không nên nằm than sau sanh.
   5. Băng kín rốn: nhiều người nghĩ rằng băng kín rốn giúp bảo vệ rốn. Thực sự việc băng kín rốn sẽ “giúp tạo môi trường tốt cho sự sinh sôi vi trùng” gây nhiễm trùng rốn và chậm rụng rốn. Bạn nên để hở rốn sau khi chăm sóc rốn, quấn tả dưới rốn, chỉ phủ lớp mỏng áo lên rốn để dễ quan sát rốn, rốn sẽ mau khô, nhanh rụng, ít nhiễm trùng, ít tạo chồi rốn.
   6. Đắp rốn với sái á phiện, phân bò: Những biện pháp này làm tăng nguy cơ nhiễm trùng rốn, hoặc làm trẻ chướng bụng, ngưng thở do ngộ độc á phiện.
   7. Cho trẻ uống nước cam thảo để trẻ ọc sạch đàm nhớt. Uống cam thảo sẽ làm tăng nguy cơ xuất huyết nguy hiểm ở trẻ do đó không được dùng.
   8. Rơ miệng ở các “bà thầy lang” khi trẻ bị đẹn miệng làm cho trẻ bị trầy xước hầu họng, chảy máu nguy hiểm. Như chúng ta biết, đẹn miệng hay tưa lưỡi là do nấm gây ra, thường xảy ra ở trẻ bú bình. Đẹn miệng có thể điều trị an toàn và dễ dàng bằng rơ lưỡi nhẹ nhàng với Mycostatin.
   9. Cắt lễ khi trẻ bệnh: thói quen cắt lễ khi trẻ bệnh không chỉ làm tăng nguy cơ nhiễm trùng, đặc biệt là viêm gan siêu vi, HIV, còn gây chảy máu không cầm rất nguy hiểm. Cắt lễ không có tác dụng gì cho việc điều trị bệnh cho em bé.
   10. Mang trẻ “đi phán” khi trẻ bệnh: việc này làm chậm trễ việc điều trị cho em bé. Nhiều lúc bé bị những biến chứng do những “thủ thuật” sử dụng khi “phán”, chẳng hạn như bỏng.
   11. Cho rằng tất cả trẻ sơ sinh bị vàng da là “vàng da sinh lý”, và “sẽ khỏi” sau 1 tuần: như chúng ta biết, 20 – 50% trẻ sau sinh có vàng da, nhưng vàng da sinh lý chỉ là một trong những nguyên nhân. Nhiều trường hợp trẻ vàng da rất sớm trong 1 – 2 ngày đầu, vàng da nặng lan tới bàn tay, bàn chân. Đây không phải là vàng da sinh lý và sau một tuần không tự khỏi được mà sẽ chết hay di chứng vĩnh viễn nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Do đó, hàng ngày cần quan sát màu da trẻ dưới ánh sáng mặt trời để phát hiện vàng da. Nếu trẻ vàng da sớm trong 1 – 2 ngày đầu sau sanh, hoặc vàng da qua rốn, vàng da tới lòng bàn tay, bàn chân, vàng da kèm bú kém, bỏ bú, gồng người bạn cần mang đến cơ sở y tế để được điều trị vì đây là vàng da nặng.
   12. Dễ dàng thay thế sữa mẹ bằng sữa bình: sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ sơ sinh. Cho trẻ bú mẹ là bạn mang đến cho trẻ nguồn dinh dưỡng, tình thương và sự an toàn. Trẻ sẽ thông minh hơn, ít bệnh hơn. Bạn nên cho trẻ sơ sinh bú mẹ hoàn toàn, không ăn hay uống thêm thứ gì khác. Bà mẹ cho bé bú theo nhu cầu của trẻ, kết hợp chế độ ăn uống và nghỉ ngơi tốt cho bà mẹ, chắc chắn bà mẹ sẽ đủ sữa cho con bú.
   13. Không rửa tay khi chăm sóc trẻ sơ sinh: Rửa tay là biện pháp đơn giản và hiệu quả phòng chống nhiễm trùng trong đó có nhiễm trùng sơ sinh. Bạn nhớ rửa tay trước và sau khi chăm sóc trẻ sơ sinh.
Phòng khám sưu tầm

CHĂM SÓC TRẺ SƠ SINH

By on 26/04/2016

Đảm bảo điều kiện môi trường tốt cho trẻ

Trong tử cung của mẹ, thân nhiệt của trẻ luôn được ổn định nhưng ngay sau khi ra đời, trẻ đã bị mất nhiệt bởi nhiệt độ môi trường thấp hơn. Do vậy, trẻ sơ sinh cần được giữ ấm. Phòng trẻ nằm phải ấm (28 – 30°C), thoáng, không có gió lùa.

Mẹ và bé nên tắm nắng sáng sớm mỗi ngày khoảng 15-20 phút. Tắm nắng không những giúp trẻ có vitamin D để hấp thu tốt canxi trong sữa mà còn giúp nhanh chóng giảm vàng da. Các dụng cụ dùng cho trẻ như: thìa, cốc, bình sữa… phải rửa thật sạch, luộc nước sôi trước khi dùng để đảm bảo vệ sinh. Tã lót, quần áo, mũ, bao tay chân… của trẻ cần phải được giặt sạch phơi dưới nắng.

Chăm sóc da và rốn

Trẻ sơ sinh thường có hiện tượng vàng da sinh lý. Vàng da (kèm với tiểu vàng) bắt đầu xuất hiện vào ngày thứ 2, thứ 3 sau sinh, đạt đỉnh điểm vào ngày thứ 3, thứ 4, sau đó giảm dần.

Lớp chất “gây” bao phủ bên ngoài da trẻ trong ngày đầu mới sinh có vai trò giữ nhiệt và bảo vệ cho da trẻ. Do vậy, không nên tắm làm sạch chất “gây” trên da bé ngay sau sinh. Từ ngày thứ 2 trở đi, lớp chất “gây” này lại là môi trường rất thuận lợi cho khả năng nhiễm khuẩn da. Chính vì vậy mà sau khi ra đời từ 24-48 giờ, hàng ngày trẻ phải được tắm sạch. Chú ý, khi rốn trẻ chưa rụng thì lúc tắm tránh làm ướt rốn và sau khi tắm xong phải thay ngay băng rốn vô khuẩn cho trẻ.

Rốn của trẻ phải được chăm sóc kỹ từ lúc mới sinh đến khi rốn rụng. Không nên băng kín rốn vì băng kín rốn sẽ tạo môi trường tốt cho vi khuẩn gây nhiễm trùng rốn và chậm rụng rốn. Để hở rốn sau khi chăm sóc, quấn tã dưới rốn, rốn sẽ mau khô, nhanh rụng, ít nhiễm trùng. Cuống rốn sẽ rụng tự nhiên sau 7-15 ngày. Rốn mới rụng phải giữ khô sạch cho tới khi lên sẹo.

Dinh dưỡng cho mẹ và bé

Nên cho trẻ nằm cùng mẹ và cho bú càng sớm càng tốt. Trong vòng 30 phút sau sinh nên cho trẻ bú mẹ để tận dụng nguồn sữa non và các chất kháng khuẩn. Cho trẻ bú đúng tư thế sẽ giúp mẹ tiết nhiều sữa cho con. Người mẹ bế trẻ sao cho: Tư thế đầu và thân trẻ thẳng hàng, bụng trẻ áp sát bụng mẹ, mũi trẻ đối diện bầu vú mẹ, tay mẹ nâng đầu, vai và mông trẻ. Trẻ cần được bú nhiều lần trong ngày (ít nhất 8 lần), bú cả ban đêm. Người mẹ nên cho trẻ bú cả sữa đầu lẫn sữa cuối, không để sữa còn lại trong bầu vú; cho trẻ bú đều cả 2 bên, bú hết bên này mới chuyển sang bên kia, lần sau đổi bên. Phần lớn trẻ sau khi bú dễ bị trớ hoặc nôn ra sữa vừa bú. Để giảm bớt nôn trớ, sau khi trẻ bú, bế trẻ đứng 5-10 phút, đến khi trẻ ợ hơi xong mới cho trẻ nằm. Khi trẻ mới bú xong, tránh các thao tác thay tã hay quần áo vì dễ làm trẻ ọc sữa.

Hiện nay, vẫn còn phổ biến tình trạng sản phụ phải ăn cơm với muối tiêu, thịt kho thật mặn, kiêng cữ canh, rau, trái cây. Điều này làm cho bà mẹ khó ăn uống, thiếu năng lượng, mệt mỏi, táo bón, thiếu canxi, trong khi cơ thể người mẹ cần dinh dưỡng để bù năng lượng đã mất do sinh nở và cho trẻ bú. Do vậy, các bà mẹ phải ăn uống đủ thành phần thịt, cá, trứng, rau, trái cây và uống sữa thêm, uống nhiều nước, chế độ nghỉ ngơi hợp lý.

Theo suckhoedoisong.vn

CHĂM SÓC RỐN SƠ SINH

By on 25/04/2016

Khi còn là bào thai trong bụng mẹ, sợi dây nối kết duy nhất giưã mẹ và con đồng thời cũng là con đường vận chuyển dưỡng khí và chất bổ dưỡng để nuôi sống thai nhi chính là dây rốn. Ở thai đủ tháng, dây rốn dài trung bình từ 50 đến 60 cm, đường kính khoảng 1,5 cm, màu trắng, mềm mại. Một đầu dây rốn gắn vào da bụng thai nhi ở vị trí sau này gọi là RỐN, một đầu gắn với bánh nhau. Khi có bất thường xảy ra với dây rốn như dây rốn bị chèn ép , bị thắt nút thì mạng sống cuả thai nhi bị đe dọa. Đặc biệt là trong lúc sanh và sau khi sanh, việc chăm sóc rốn cho trẻ cũng không kém phần quan trọng.

Chăm sóc rốn phải được thực hiện ngay sau khi trẻ sơ sinh rời khỏi mẹ cho đến lúc rụng rốn và lên sẹo khô. Phải bảo đảm vô khuẩn khi cắt rốn và làm rốn để phòng tránh uốn ván rốn cho trẻ sơ sinh là một bệnh rất nặng thường dẫn đến tử vong . Dụng cụ kẹp và cắt rốn phải được tiệt trùng , không được dùng mảnh sành, mảnh chai, dao kéo sắc bẩn để cắt rốn .Tay người đỡ đẻ không rưả sạch hoặc dùng găng tay, băng gạc làm rốn không tiệt trùng cũng là nguyên nhân dẫn đến uốn ván rốn. Điều này thường xảy ra ở nông thôn, vùng sâu vùng xa do các bà mụ vườn thiếu kiến thức về sự vô trùng thực hiện. Vì thế tình trạng nhiễm trùng rốn là mối nguy cơ cao cho trẻ sơ sinh.

.

chamsoccuongron-1170x520

Cách chăm sóc rốn theo các qui tắc như sau :

+ Sau khi cắt rốn, người hộ sinh chấm cồn Iode 5% tại đầu cuống rốn , kế đó sẽ lau đoạn dây rốn còn lại và 3cm da bụng quanh rốn với dung dịch Povidin 10% .
+ Cột rốn bằng chỉ tiệt trùng hay kẹp đã sát trùng .
+ Gói cuống rốn bằng gạc vô trùng , đắp lên rốn một lớp gạc mỏng rồi băng ngoài với băng rốn bằng vải sạch . Khi xuất viện về nhà, bà mẹ làm rốn cho bé phải sử dụng các loại gạc làm rốn đã tiệt trùng cùng với các dung dịch sát trùng để chung trong một gói, có bán sẵn tại các hiệu thuốc.
+ Trong khi tắm bé, tránh làm ướt rốn. Thay băng rốn hằng ngày hoặc khi bất cứ khi nào băng bị ướt . Thông thường, cuống rốn sẽ rụng tự nhiên sau 6-10 ngày. Nếu rốn bình thường thì lau cuống rốn bằng dung dịch Povidin 10% . Nếu rốn có mùi hôi, chậm rụng, ẩm ướt thì chỉ dùng cồn Iod, không rắc bột kháng sinh vào rốn. Nếu thấy có dấu hiệu loét quanh rốn thì rưả bằng nước muối sinh lý ngày 2 lần . Tốt nhất là đưa bé đến Bệnh viện hoặc Bác sĩ Nhi khoa để khám và điều trị.

+ Rốn mới rụng phải giữ khô sạch tới khi lên sẹo.
+ Nếu rốn đã rụng nhưng còn tổ chức u hạt màu đỏ, tiết dịch vàng thì phải đưa bé đế cơ sở Y tế để được chấm Nitrate bạc 5-10% vào u hạt hoặc đốt điện nếu u hạt lớn .
+ Trường hợp trẻ đẻ rơi, đẻ ở nhà thì phải chăm sóc rốn càng sớm càng tốt. Tại bệnh viện, nên tiêm bắp huyết thanh chống uốn ván (SAT 1500 đơn vị) cho trẻ. Đề phòng uốn ván rốn hữu hiệu nhất là tiêm phòng uốn ván cho bà mẹ trong thời gian mang thai . Mũi thứ 1 cách mũi thứ 2 một tháng và mũi cuối phải cách ngày sanh ít nhất 2 tuần lễ thì mới đủ thời gian tạo kháng thể chống uốn ván trong cơ thể mẹ. Kháng thể này sẽ được truyền sang cho thai nhi.

Tóm lại, khi thấy bất kỳ một dấu hiệu viêm nhiễm ở rốn hay quanh vùng rốn sau đây thì các bà mẹ nên đưa trẻ đến cơ sở Y tế để được khám và điều trị :

+ Rốn hôi, chảy nước vàng.
+ Rốn sưng đỏ, có mủ.
+ Rốn có u hạt to, rỉ máu, ướt.
+ Rốn không sạch và trẻ sốt, bỏ bú.

Sản phụ và gia đình phải được hướng dẫn cách chăm sóc rốn cho trẻ sơ sinh vì không phải chỉ vô trùng trong khi đỡ đẻ và cắt rốn với dụng cụ tiệt trùng là đủ mà sự chăm sóc rốn không đúng cách cũng là nguyên nhân làm nhiễm trùng rốn và dẫn đến uốn ván sơ sinh.

PGS.TS.Vũ Thị Nhung
Bệnh viện Hùng Vương