Sản Khoa
KHÁM THAI 3 THÁNG GIỮA
Những thay đổi của thai kỳ 3 tháng giữa
Đây là khoảng thời gian tuyệt vời nhất đối với các mẹ bầu khi cảm nhận được sự di chuyển lần đầu tiên của bé yêu trong bụng. Đó là hiện tượng thai máy, thường xảy ra ở tuần thai 16 – 20. Ở người con rạ, người mẹ thấy thai máy sớm hơn so với người con so. Ngoài ra ở giai đoạn này, hầu hết các triệu chứng khó chịu như nghén, mệt mỏi… đa phần đều đã hết. Do vậy mẹ bầu có thể ăn uống được nhiều thứ mình thích hơn, thấy dễ chịu hơn nhiều so với giai đoạn 3 tháng đầu tiên (từ lúc có thai đến khi thai đủ 13 tuần.
Tuy nhiên ở 3 tháng giữa của thai kỳ (14 đến 26 tuần), nhiều sản phụ có thể gặp tình trạng táo bón, chóng mặt và khó thở do thai lớn lên gây sức ép lên lồng ngực và phổi, ép lên các tĩnh mạch. Bên cạnh đó các vết rạn ở da bắt đầu xuất hiện ở ngực, mông, đùi.
Khám thai 3 tháng giữa là khám những gì
Lịch khám thai trong 3 tháng giữa:các thai phụ khám thai mỗi 4 tuần một lần cho đến 28 tuần. Các công việc quan trọng là siêu âm khảo sát hình thái thai nhi (siêu âm 4D) từ tuần thứ 20 đến 24, test tầm soát tiểu đường thai kỳ (OGTT) từ 24 đến 28 tuần và tiêm phòng uốn ván rốn.
Khảo sát dị tật thai nhi
Quy trình khảo sát dị tật thai nhi được thực hiện trong suốt thai kỳ. Tuy nhiên, đa phần các dị tật về mặt hình thái thai nhi sẽ được phát hiện trong giai đoạn 3 tháng giữa. Siêu âm hình thái thai nhi (siêu âm 4 chiều) là một khảo sát nhằm tìm các bất thường thai nhi về mặt cấu trúc và hình thái.
Tầm soát bệnh lý đái tháo đường
Đái tháo đường ở phụ nữ mang thai chia thành 3 loại:
- Đái tháo đường trong thai kỳ (DIP) là đái tháo đường đã được chẩn đoán trước khi mang thai hoặc trong giai đoạn sớm của thai kỳ.
- Đái tháo đường thai kỳ là những trường hợp người phụ nữ không bị đái tháo đường trước lúc mang thai và chỉ được chẩn đoán đoán đái tháo đường ở từ thời điểm 24 tuần trở về sau.
Test dung nạp Glucose 75 gram hiện nay được triển khai thường quy cho mọi thai phụ Việt Nam từ 24-28 tuần nhằm tầm soát đái tháo đường thai kỳ. Tuy nhiên, đối với những người phụ nữ có nguy cơ cao bị đái tháo đường thai kỳ như tiền sử gia đình có người bị đái tháo đường, béo phì, bị hội chứng buồng trứng đa nang PCOS, tiền sử sinh con to trên 4000 gram hoặc tiền sử thai chết lưu…, việc thực hiện xét nghiệm dung nạp glucose 75 gram có thể thực hiện từ rất sớm, trong 3 tháng đầu của thai kỳ nhằm phát hiện những trường hợp đái tháo đường trong thai kỳ (DIP) chưa được chẩn đoán trước lúc mang thai. Tuy nhiên, các chỉ số xác định đái tháo đường trong thai kỳ lúc này tương tự như những phụ nữ chưa mang thai (đường huyết lúc đói >126 mg/dL) chứ không phải của người đái tháo đường thai kỳ (lúc 24028 tuần).
Đa số những trường hợp đái tháo đường thai kỳ sẽ biến mất sau sinh. Tuy nhiên, một số thai phụ sẽ bị đái tháo đường type 2 về sau.
Theo dõi sự phát triển và đánh giá tình trạng sức khỏe thai nhi
Thai nhi đang phát triển như thế nào là một câu hỏi của bất kỳ bà mẹ ông bố nào khi chuẩn bị đón bé yêu chào đời. Việc theo dõi sự phát triển của thai nhi được thực hiện qua thăm khám lâm sàng của người BS chuyên khoa phụ sản (đo bề cao tử cung, vòng bụng…), siêu âm các kích thước của thai nhi (Đường kính lưỡng đỉnh, chiều dài xương đùi, đường kính ngang bụng, chu vi vòng bụng…), khảo sát Doppler mạch máu nuôi dưỡng (Động mạch rốn, Động mạch tử cung) hoặc Doppler mạch máu của bản thân thai nhi (Động mạch não giữa…).
Tiêm ngừa uốn ván
Bệnh uốn ván (tetanus) là một bệnh cấp tính do ngoại độc tố (tetanus exotoxin) của vi khuẩn uốn ván (Clostridium tetani) phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí. Các triệu chứng của bệnh được biểu hiện là những cơn co cứng cơ kèm theo đau, trước tiên là các cơ nhai, cơ mặt, cơ gáy và sau đó là cơ thân. Để phòng ngừa uốn ván cho trẻ sơ sinh, theo phác đồ khám thai của bộ y tế Việt Nam, mọi phụ nữ mang thai cần được tiêm phòng uốn ván hai mũi các nhau 1 tháng. Mũi cuối cùng nên được tiêm trước khi sinh ít nhất 1 tháng.
Trưởng Phòng khám Phụ Sản- Bệnh viện Đại học Y Dược (cơ sở 2)
Trưởng Đơn vị Hậu Sản- Hậu phẫu- Bệnh viện Đại học Y Dược (cơ sở 2)
Giảng viên Đại học Y dược
Bệnh viện Hùng Vương
Giám đốc chuyên môn Phòng khám Hoàng Gia- Hoang Gia Health
ĐĂNG KÝ KHÁM VÀ TƯ VẤN TẠI:
KHÁM THAI 3 THÁNG CUỐI
Tam cá nguyệt thứ 3 (từ khi thai nhi được 27 tuần cho đến khi sinh) được xem là giai đoạn thai nhi tăng trưởng nhanh nhất. Vì vậy, sự chăm sóc của mẹ trong giai đoạn này đặc biệt quan trọng, vừa có tác dụng hỗ trợ cho sự phát triển, vừa chuẩn bị cho sự chào đời của con một cách tốt nhất
1/ Tầm quan trọng của việc chăm sóc tiền sản 3 tháng cuối thai kỳ
Về cơ bản, sự phát triển của thai nhi trong giai đoạn cuối thai kỳ gần như đã hoàn chỉnh về mặt cấu trúc các cơ quan. Tuy nhiên, không phải cấu trúc thai nhi trong giai đoạn 3 tháng giữa được xác định bình thường có nghĩa là trong giai đoạn 3 tháng cuối cũng bình thường. Có những bất thường về mặt cấu trúc của thai nhi đã có trong giai đoạn 3 tháng đầu nhưng chưa thể phát hiện được. Đến giai đoạn này, các bất thường cấu trúc thai nhi bộc lộ rõ hơn, và có thể phát hiện được qua thăm khám.
Việc khám thai 3 tháng cuối giúp phát hiện và điều trị các bệnh lý nội khoa của mẹ như đái tháo đường, tiền sản giật, sản giật, tim, tuyến giáp. Những bệnh lý này không những có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ trong suốt quá trình mang thai mà có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của cả mẹ và em bé trong cuộc sinh và sau sinh.
Ngoài ra, việc khám thai ba tháng cuối còn giúp phát hiện và chuẩn bị xử trí các bất thường về “phần phụ” như các bất thường về bánh nhau, dây rốn, nước ối… Gọi là “phần phụ” vì nó không phải là “phần chính”- thai nhi. Tuy nhiên, những bất thường của “phần phụ” này ảnh hưởng không nhỏ đến thai nhi. Dây rốn quấn cổ, dây rốn thắt nút, dây rốn có một động mạch, dây rốn bám màng…, nhau tiền đạo, bánh nhau phụ, mạch máu tiền đạo…, thiểu ối, đa ối…, dãi sợi ối… là những bất thường không chỉ có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của thai nhi mà còn cả người mẹ.
2/ Chế độ dinh dưỡng chuẩn cho thai phát triển toàn diện nhất
Trong giai đoạn “nước rút” này, mỗi ngày, bầu nên cố gắng ăn nhiều rau xanh, trái cây, đồ biển, cá, tôm, cua, ốc…
Những quan điểm sai lầm như “uống nước mía cho con sinh ra sạch” cần nên loại bỏ! Việc uống nước mía chỉ cung cấp nước cho các thai phụ. Thành phần đường trong nước mía ngoài việc cung cấp năng lượng cho thai phụ thì không có lợi gì cả. Đường trong nước mía chỉ góp phần đưa các thai phụ vào tình trạng đái tháo đường nhanh thai kỳ nhanh hơn, trẻ sinh ra dễ bị sang chấn sản khoa, kẹt vai, gãy xương đòn, liệt đám rối thần kinh cánh tay…
3/ Tập thể dục 3 tháng cuối: Lợi mẹ, lợi con!
Thể dục khi mang thai, nhất là những bài tập thể dục trong 3 tháng cuối thai kỳ không chỉ giúp mẹ bầu kiểm soát mức cân nặng, ngăn ngừa đái tháo đường thai kỳ và những biến chứng nguy hiểm mà còn có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thai nhi trong giai đoạn này.
Tuy nhiên, việc tập thể dục cũng tùy từng tình trạng thai kỳ. Không phải thai phụ nào cũng tập thể dục như nhau. Những người bị dọa sinh non hoặc tiền sử sinh non, khâu eo cổ tử cung, những người bị nhau bám thấp, nhau tiền đạo, những người đang mang song thai hoặc đa thai…, việc “đi bộ quá nhiều cho dễ sinh” như quan điểm được truyền miệng xưa nay có thể làm cho các thai phụ chuyển dạ sinh sớm hơn, sinh non…
4/ Học cách“hít thở”
Hít thở có gì phải học?
Con người sinh ra phải “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Chuyện hít thở là chuyện tự nhiên, ai cũng biết, không cần phải học!
Đúng vậy. Nếu chỉ để bản thân sống được thì không cần phải học “hít thở”. Nhưng để sinh đẻ ra được đứa con khỏe mạnh thì phải học “hít thở”. Hít thở sao cho hơi thở dài hơn, lượng oxy hít vào nhiều hơn, chuẩn bị cho một hơi rặn dài hơn để rặn sinh. Đây là một trong những bước chuẩn bị quan trọng cho quá trình chào đời của bé, giúp các bà mẹ cảm thấy tự tin hơn khi bước vào phòng sinh.
Trưởng Phòng khám Phụ Sản- Bệnh viện Đại học Y Dược (cơ sở 2)
Trưởng Đơn vị Hậu Sản- Hậu phẫu- Bệnh viện Đại học Y Dược (cơ sở 2)
Giảng viên Đại học Y dược
Bệnh viện Hùng Vương
Giám đốc chuyên môn Phòng khám Hoàng Gia- Hoang Gia Health
ĐĂNG KÝ KHÁM VÀ TƯ VẤN TẠI:
XUẤT HUYẾT 3 THÁNG ĐẦU
XUẤT HUYẾT 3 THÁNG CUỐI
Tình trạng xuất huyết từ tuần 20 của thai kỳ
Xuất huyết âm đạo trong nửa giai đoạn sau của thai kỳ thường do các nguyên nhân:
Nhau bong non: Là tình trạng nhau thai tách khỏi vị trí thành tử cung khi bé chưa chào đời. Triệu chứng thường là đau bụng, xuất huyết âm đạo. Khi xác định nhau bong non, cần theo dõi sát sao tình trạng thai nhi, mẹ và sự co bóp của tử cung. Việc xử trí tuỳ mức độ của nhau bong và tuổi thai. Nếu thai trưởng thành, bác sĩ sẽ theo dõi và cho kích thích chuyển dạ.
Nhau tiền đạo: Bình thường, bánh nhau bám vào mặt trước, sau và đáy tử cung. Nếu vì lý do nào đó như: tử cung có sẹo mổ cũ, bị dị dạng, có tiền sử điều hòa kinh nguyệt… bánh nhau sẽ bám thấp xuống vòng eo tử cung, che một phần hay toàn bộ lỗ trong tử cung, gây cản trở đường đi của thai nhi khi chuyển dạ. Đặc biệt là gây chảy máu khi có sự bong tách giữa bánh nhau và tử cung.
Lưu ý: Thai phụ bị ra huyết không phải chuyện hiếm. Có nhiều trường hợp ra huyết do những nguyên nhân nhỏ, không cần điều trị. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp nguy hiểm. Trường hợp của bạn đã được thăm khám, chẩn đoán và chỉ định điều trị, vì vậy bạn cần tuân thủ theo các chỉ dẫn của bác sĩ, nếu có bất cứ bất thường nào, bạn nên thông thông báo kịp thời cho bác sĩ điều trị.
QUY TRÌNH TẦM SOÁT BỆNH DOWN & CÁC LỆCH BỘI NHIỄM SẮC THỂ
Tầm soát bệnh cho con từ khi còn là bào thai đến sau khi chào đời là cách thương yêu con thiết thực nhất mà bất kỳ phụ nữ nào cũng cần quan tâm.
TÌM BỆNH CHO CON TỪ TRONG BỤNG MẸ
Bệnh Down: Do rối loạn nhiễm sắc thể thứ 21, là bệnh làm cho các bé dù sinh ra bởi cặp vợ chồng nào đi nữa thì vẫn có chung các đặc điểm: mắt hẹp, người nhỏ bé, chậm phát triển tâm thần. Điều thương tâm là các bé này sớm qua đời. Khoa học đã nghiên cứu và phát hiện trẻ mắc bệnh Down do rối loạn nhiễm sắc thể. Thông thường, những cặp vợ chồng lớn tuổi có nguy cơ cao sinh con bị bệnh Down.
Dị tật ống thần kinh: xảy ra do ống thần kinh không đóng vào ngày 18 – 28 của thai kỳ. Dị tật ống thần kinh thường dẫn đến các dị tật nặng như thai vô sọ, nứt đốt sống, thoát vị não – màng não…
Tầm soát bệnh cho con từ khi còn là bào thai là cách yêu con thiết thực nhất. Ảnh minh họa
– Thai vô sọ: thiếu một phần hay toàn bộ vùng đại não (vùng não điều khiển suy nghĩ, nhìn, nghe, cử động), thiếu xương bao phủ phía sau và hai bên đầu. Nếu chào đời, bé sơ sinh có khuôn mặt bất thường, đầu phẳng. Bệnh không thể điều trị, phần lớn trẻ chết trong bào thai hoặc ngay sau khi chào đời.
– Thoát vị não: do hộp sọ không đóng lại khiến cho mô não, dịch tủy não thoát ra ngoài. Thai bị thoát vị não thường chết khi chưa chào đời. Nếu sống sót, trẻ sẽ bị liệt, co cứng tay chân, mất điều hòa cử động, chậm phát triển tâm thần, có vấn đề về thị lực, chậm tăng trưởng…
– Chẻ đôi đốt sống: ống thần kinh, phần tạo thành tủy sống và cột sống không đóng lại hoàn chỉnh gây tổn thương cho sự phát triển của tủy sống bên trong. Siêu âm có thể phát hiện nhờ cấu trúc bất thường ở phần thấp của cột sống. Trẻ sau khi sinh có thể có những biểu hiện: liệt hai chi dưới, mất cảm giác hoặc rối loạn cơ…
Hội chứng Edward: kém phát triển thể lực và trí tuệ, bị bệnh tim bẩm sinh. Nếu sống sẽ phải dựa hoàn toàn vào người thân vì không có khả năng vận động, giao tiếp…
Vậy khi nào cần tầm soát? Bác sĩ Nguyễn Hữu Trung – Trưởng phòng khám Phụ sản Hoàng Gia TP.HCM, cho biết: “Tất cả thai phụ nên tầm soát dị tật lệch bội nhiễm sắc thể thai nhi (bất thường về số lượng nhiễm sắc thể) trong ba tháng đầu thai kỳ, qua kết hợp Double test và siêu âm độ mờ da gáy. Những trường hợp không thể thực hiện tầm soát trong ba tháng đầu, có thể tầm soát trong ba tháng giữa (15-21 tuần).
SÀNG LỌC BỆNH SAU SINH
Một số bệnh như: thiếu men G6PD, suy tuyến giáp bẩm sinh, tăng sinh tuyến thượng thận bẩm sinh, nếu phát hiện sớm, việc điều trị sẽ mang lại hiệu quả cao.
Bệnh thiếu hụt men G6PD bẩm sinh: là một bệnh di truyền liên kết với giới tính (nhiễm sắc thể X). Nam giới có khả năng mắc bệnh cao hơn nữ giới. Khi thiếu men này, màng tế bào trở nên mong manh dễ vỡ. Khi tế bào hồng cầu vỡ, sẽ phóng thích vào máu bilirubin tự do. Ở bé sơ sinh, gan không đào thải được chất này kịp nên bé bị vàng da và vàng mắt. Bilirubin trong cơ thể bé sơ sinh quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến phát triển trí não.
Suy tuyến giáp bẩm sinh: khi bé bị suy giáp bẩm sinh, lượng nội tiết (T4) do tuyến giáp sản xuất sẽ thấp. Lúc này tuyến yên được báo động để tiết ra nhiều TSH (hormon do tuyến yên tiết ra) để kích thích tuyến giáp sản xuất ra T4. Trong khi đó tuyến giáp không thể tiết T4 nên lượng TSH trong cơ thể bé luôn cao. Nội tiết tố tuyến giáp là chất cần thiết cho não bộ và cơ thể phát triển từ lúc mới sinh cho tới khi trưởng thành. Nếu bị thiếu, não và cơ thể không phát triển đưa đến trẻ bị ngu đần và thấp còi. Việc phát hiện bệnh sớm và điều trị bổ sung đủ lượng nội tiết tố tuyến giáp trong vòng hai tuần đầu sau sinh sẽ giúp trẻ phát triển bình thường.
Tăng sinh tuyến thượng thận bẩm sinh: cơ thể bé sẽ thiếu các men giúp sản xuất ra nội tiết tố của tuyến thượng thận. Cụ thể: thiếu aldosterol (giúp thăng bằng chuyển hóa muối – nước) thiếu cortisol (giúp tăng chuyển hóa đường và chống đỡ với stress). Hậu quả là bé bị mất nước, muối, rất dễ tử vong. Bé gái bị mắc bệnh này, khi ra đời có bộ phận sinh dục hơi bất thường (phì đại âm vật, nam hóa). Còn ở bé trai, do không có biểu hiện bất thường ở cơ quan sinh dục nên thường được phát hiện muộn.
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Trung hướng dẫn: “Việc sàng lọc sơ sinh được thực hiện bằng cách lấy hai giọt máu ở gót chân trẻ sơ sinh sau khi chào đời 48 giờ. Máu được nhỏ lên mẩu giấy thấm, để khô, xét nghiệm để phát hiện ba loại bệnh: thiếu men G6PD, suy giáp bẩm sinh và tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh”.
Các bệnh nêu trên có thể phát hiện sớm ngay khi mang thai và sau khi sinh. Với các bà mẹ lớn tuổi, trong gia đình đã có người mắc hoặc chết vì các bệnh Down, Edward, thiếu men G6PD… thì càng cần kiểm tra kỹ lưỡng hơn để bảo đảm có được đứa con khỏe mạnh.