Archives
XUẤT HUYẾT 3 THÁNG ĐẦU
XUẤT HUYẾT 3 THÁNG CUỐI
Tình trạng xuất huyết từ tuần 20 của thai kỳ
Xuất huyết âm đạo trong nửa giai đoạn sau của thai kỳ thường do các nguyên nhân:
Nhau bong non: Là tình trạng nhau thai tách khỏi vị trí thành tử cung khi bé chưa chào đời. Triệu chứng thường là đau bụng, xuất huyết âm đạo. Khi xác định nhau bong non, cần theo dõi sát sao tình trạng thai nhi, mẹ và sự co bóp của tử cung. Việc xử trí tuỳ mức độ của nhau bong và tuổi thai. Nếu thai trưởng thành, bác sĩ sẽ theo dõi và cho kích thích chuyển dạ.
Nhau tiền đạo: Bình thường, bánh nhau bám vào mặt trước, sau và đáy tử cung. Nếu vì lý do nào đó như: tử cung có sẹo mổ cũ, bị dị dạng, có tiền sử điều hòa kinh nguyệt… bánh nhau sẽ bám thấp xuống vòng eo tử cung, che một phần hay toàn bộ lỗ trong tử cung, gây cản trở đường đi của thai nhi khi chuyển dạ. Đặc biệt là gây chảy máu khi có sự bong tách giữa bánh nhau và tử cung.
Lưu ý: Thai phụ bị ra huyết không phải chuyện hiếm. Có nhiều trường hợp ra huyết do những nguyên nhân nhỏ, không cần điều trị. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp nguy hiểm. Trường hợp của bạn đã được thăm khám, chẩn đoán và chỉ định điều trị, vì vậy bạn cần tuân thủ theo các chỉ dẫn của bác sĩ, nếu có bất cứ bất thường nào, bạn nên thông thông báo kịp thời cho bác sĩ điều trị.
QUY TRÌNH TẦM SOÁT BỆNH DOWN & CÁC LỆCH BỘI NHIỄM SẮC THỂ
Tầm soát bệnh cho con từ khi còn là bào thai đến sau khi chào đời là cách thương yêu con thiết thực nhất mà bất kỳ phụ nữ nào cũng cần quan tâm.
TÌM BỆNH CHO CON TỪ TRONG BỤNG MẸ
Bệnh Down: Do rối loạn nhiễm sắc thể thứ 21, là bệnh làm cho các bé dù sinh ra bởi cặp vợ chồng nào đi nữa thì vẫn có chung các đặc điểm: mắt hẹp, người nhỏ bé, chậm phát triển tâm thần. Điều thương tâm là các bé này sớm qua đời. Khoa học đã nghiên cứu và phát hiện trẻ mắc bệnh Down do rối loạn nhiễm sắc thể. Thông thường, những cặp vợ chồng lớn tuổi có nguy cơ cao sinh con bị bệnh Down.
Dị tật ống thần kinh: xảy ra do ống thần kinh không đóng vào ngày 18 – 28 của thai kỳ. Dị tật ống thần kinh thường dẫn đến các dị tật nặng như thai vô sọ, nứt đốt sống, thoát vị não – màng não…
Tầm soát bệnh cho con từ khi còn là bào thai là cách yêu con thiết thực nhất. Ảnh minh họa
– Thai vô sọ: thiếu một phần hay toàn bộ vùng đại não (vùng não điều khiển suy nghĩ, nhìn, nghe, cử động), thiếu xương bao phủ phía sau và hai bên đầu. Nếu chào đời, bé sơ sinh có khuôn mặt bất thường, đầu phẳng. Bệnh không thể điều trị, phần lớn trẻ chết trong bào thai hoặc ngay sau khi chào đời.
– Thoát vị não: do hộp sọ không đóng lại khiến cho mô não, dịch tủy não thoát ra ngoài. Thai bị thoát vị não thường chết khi chưa chào đời. Nếu sống sót, trẻ sẽ bị liệt, co cứng tay chân, mất điều hòa cử động, chậm phát triển tâm thần, có vấn đề về thị lực, chậm tăng trưởng…
– Chẻ đôi đốt sống: ống thần kinh, phần tạo thành tủy sống và cột sống không đóng lại hoàn chỉnh gây tổn thương cho sự phát triển của tủy sống bên trong. Siêu âm có thể phát hiện nhờ cấu trúc bất thường ở phần thấp của cột sống. Trẻ sau khi sinh có thể có những biểu hiện: liệt hai chi dưới, mất cảm giác hoặc rối loạn cơ…
Hội chứng Edward: kém phát triển thể lực và trí tuệ, bị bệnh tim bẩm sinh. Nếu sống sẽ phải dựa hoàn toàn vào người thân vì không có khả năng vận động, giao tiếp…
Vậy khi nào cần tầm soát? Bác sĩ Nguyễn Hữu Trung – Trưởng phòng khám Phụ sản Hoàng Gia TP.HCM, cho biết: “Tất cả thai phụ nên tầm soát dị tật lệch bội nhiễm sắc thể thai nhi (bất thường về số lượng nhiễm sắc thể) trong ba tháng đầu thai kỳ, qua kết hợp Double test và siêu âm độ mờ da gáy. Những trường hợp không thể thực hiện tầm soát trong ba tháng đầu, có thể tầm soát trong ba tháng giữa (15-21 tuần).
SÀNG LỌC BỆNH SAU SINH
Một số bệnh như: thiếu men G6PD, suy tuyến giáp bẩm sinh, tăng sinh tuyến thượng thận bẩm sinh, nếu phát hiện sớm, việc điều trị sẽ mang lại hiệu quả cao.
Bệnh thiếu hụt men G6PD bẩm sinh: là một bệnh di truyền liên kết với giới tính (nhiễm sắc thể X). Nam giới có khả năng mắc bệnh cao hơn nữ giới. Khi thiếu men này, màng tế bào trở nên mong manh dễ vỡ. Khi tế bào hồng cầu vỡ, sẽ phóng thích vào máu bilirubin tự do. Ở bé sơ sinh, gan không đào thải được chất này kịp nên bé bị vàng da và vàng mắt. Bilirubin trong cơ thể bé sơ sinh quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến phát triển trí não.
Suy tuyến giáp bẩm sinh: khi bé bị suy giáp bẩm sinh, lượng nội tiết (T4) do tuyến giáp sản xuất sẽ thấp. Lúc này tuyến yên được báo động để tiết ra nhiều TSH (hormon do tuyến yên tiết ra) để kích thích tuyến giáp sản xuất ra T4. Trong khi đó tuyến giáp không thể tiết T4 nên lượng TSH trong cơ thể bé luôn cao. Nội tiết tố tuyến giáp là chất cần thiết cho não bộ và cơ thể phát triển từ lúc mới sinh cho tới khi trưởng thành. Nếu bị thiếu, não và cơ thể không phát triển đưa đến trẻ bị ngu đần và thấp còi. Việc phát hiện bệnh sớm và điều trị bổ sung đủ lượng nội tiết tố tuyến giáp trong vòng hai tuần đầu sau sinh sẽ giúp trẻ phát triển bình thường.
Tăng sinh tuyến thượng thận bẩm sinh: cơ thể bé sẽ thiếu các men giúp sản xuất ra nội tiết tố của tuyến thượng thận. Cụ thể: thiếu aldosterol (giúp thăng bằng chuyển hóa muối – nước) thiếu cortisol (giúp tăng chuyển hóa đường và chống đỡ với stress). Hậu quả là bé bị mất nước, muối, rất dễ tử vong. Bé gái bị mắc bệnh này, khi ra đời có bộ phận sinh dục hơi bất thường (phì đại âm vật, nam hóa). Còn ở bé trai, do không có biểu hiện bất thường ở cơ quan sinh dục nên thường được phát hiện muộn.
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Trung hướng dẫn: “Việc sàng lọc sơ sinh được thực hiện bằng cách lấy hai giọt máu ở gót chân trẻ sơ sinh sau khi chào đời 48 giờ. Máu được nhỏ lên mẩu giấy thấm, để khô, xét nghiệm để phát hiện ba loại bệnh: thiếu men G6PD, suy giáp bẩm sinh và tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh”.
Các bệnh nêu trên có thể phát hiện sớm ngay khi mang thai và sau khi sinh. Với các bà mẹ lớn tuổi, trong gia đình đã có người mắc hoặc chết vì các bệnh Down, Edward, thiếu men G6PD… thì càng cần kiểm tra kỹ lưỡng hơn để bảo đảm có được đứa con khỏe mạnh.
TIÊM NGỪA UỐN VÁN TRONG THAI KỲ
Khi mang thai các mẹ nhớ phải tiêm phòng uốn ván nhé. Tiêm VAT nhằm mục đích ngừa uốn ván rốn trẻ sơ sinh.
Đối với người phụ nữ mang thai lần đầu, trước đó chưa tiêm phòng uốn ván thì tiêm 2 mũi. VAT 1 được tiêm càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, do trong 3 tháng đầu tiên, thai kỳ chưa thực sự ổn định, có thể sẩy thai do nhiều nguyên nhân khác nhau, nếu chẳng may tiêm VAT về rồi sau đó sẩy thai thì dễ bị hiểu nhầm do tiêm VAT gây ra. Vì vậy, đa số các cơ sở y tế tiêm VAT 1 vào khoảng 3 tháng giữa thai kỳ. VAT 2 tiêm sau VAT 1 tối thiểu 30 ngày và trước ngày dự sinh tối thiểu 30 ngày
Và sau 10 năm nên tiêm nhắc lại, khi đi sinh nên đến các cơ sở y tế để được chăm sóc vệ sinh rốn an toàn nhất.
Nếu lỡ đẻ rơi ở nhà thì phải xử lý, chăm sóc vệ sinh rốn tốt bằng các dung dịch sát khuẩn như cồn iode (povidive, betadine…). Khi trẻ có dấu hiệu bất thường về rốn hay trẻ bỏ bú, khóc nhưng không há miệng được (cứng hàm) thì phải đến BS khám ngay để được phát hiện bệnh sớm.
Nếu để bị nhiễm trùng, sẽ gây nhiều biến chứng nguy hiểm, có thể gây tử vong đấy các mẹ.
QUY TRÌNH TẦM SOÁT ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ
Các yếu tố nguy cơ của đái tháo đường là gì?
Hiện nay tiểu đường (đái tháo đường) đang trở thành đại dịch trên toàn thế giới. Tiểu đường khi có thai cũng ngày càng gia tăng nhất là ở những thai phụ có những yếu tố nguy cơ như: cha mẹ, anh em có người bị tiểu đường, thai kỳ lần trước bị thai lưu, thai dị tật, con to hoặc ở những người có lối sống ít vận động, béo phì, cao huyết áp.
Những tác hại cho mẹ và em bé khi bị đái tháo đường trong thai kỳ.
Tiểu đường xảy ra khi mang thai thường không có triệu chứng gì ngay cả xét nghiệm đường lúc đói cũng không cao, nhưng lại có thể gây những ảnh hưởng rất nguy hiểm cho mẹ và thai nhi.
Đối với mẹ có thể gây: bệnh lý thận, tiền sản giật, bệnh lý tim,…
Đối với con có thể gây: sảy thai, thai dị tật, thai chết trong bụng mà không rõ lý do, con sanh ra to, sanh khó, nguy cơ phải mổ sanh cao, dễ ngạt, vàng da nặng và nếu không được phát hiện và hướng dẫn một chế độ ăn uống, sinh hoạt hợp lý, điều trị đúng sẽ có thể tiến triển thành bệnh tiểu đường sau này.
Làm thế nào để biết mình có thể bị đái tháo đường trong thai kỳ?
Muốn biết mình có bị tiểu đường khi mang thai hay không, nhất là các thai phụ có nguy cơ cao, các bạn nên tham gia thực hiện chương trình “ Tầm soát đái tháo đường trong thai kỳ” tại phòng khám thai bệnh viện Từ Dũ và sẽ được hướng dẫn một chế độ ăn uống, sinh hoạt cũng như điều trị hợp lý nếu như phát hiện ra bệnh nhằm chăm sóc sức khoẻ cho mình và thai nhi được tốt hơn.
Chương trình gồm có các bước :
Bước 1:
Xét nghiệm lần 1: rất đơn giản và không hề khó chịu. Bạn sẽ được uống 1 ly nước đường trong vòng 5 phút. Sau đó ngồi nghỉ, 1 tiếng sau sẽ được làm xét nghiệm (lấy một chút xíu máu ở đầu ngón tay, không đau).
Nếu kết quả xét nghiệm sàng lọc > 140mg/dl bạn sẽ được thực hiện xét nghiệm lần 2 sau một tuần.
Bước 2:
Xét nghiệm lần 2: Bạn sẽ được uống 1 ly nước đường, bác sĩ sẽ đo đường huyết của bạn trước khi uống đường và 2 lần sau khi uống đường. Nếu trong 2 kết quả đường huyết cao hơn bình thường bạn sẽ được chẩn đoán là đái tháo đường trong thai kỳ. Tuỳ theo, mức độ cao của đường huyết, bạn sẽ được bác sĩ của mình cho những hướng dẫn cụ thể về chế độ ăn uống, sinh hoạt hoặc điều trị bằng thuốc hợp lý, giúp chăm sóc sức khoẻ tốt cho bạn và con bạn